الدين النصيحة APP
Dhikr (tưởng nhớ) là một hình thức thờ phượng Hồi giáo dựa trên việc tưởng nhớ Allah, như được nêu trong Surah Al-Ahzab: 12: “Hỡi những người có đức tin, hãy tưởng nhớ Allah với sự tưởng nhớ sâu sắc.” Và lời phán của Ngài: “Quả thật, trong việc tạo ra các tầng trời và trái đất và sự luân phiên của đêm và ngày là những dấu hiệu cho những người hiểu biết - những người tưởng nhớ Allah khi đứng, ngồi và nằm nghiêng.” (Al-Imran: 190-191). Nguyên tắc cơ bản là nhắc đến một trong những thuộc tính của Allah hoặc ca ngợi Allah chỉ vì mục đích nhắc đến Ngài. Tưởng nhớ được coi là một trong những hình thức thờ phượng dễ dàng nhất. Các học giả ví nhu cầu tưởng nhớ của một người giống như nhu cầu ăn uống và ngủ nghỉ. Tưởng nhớ là nguồn nuôi dưỡng tâm hồn, và tưởng nhớ tốt nhất là (không có thần linh nào ngoài Allah).
Kinh Qur'an, còn được gọi là Kinh Qur'an Cao quý, là cuốn sách kỳ diệu của Thượng Đế đối với người Hồi giáo. Họ tôn kính nó và tin rằng đó là lời của Thượng Đế, rằng nó đã được mặc khải cho Tiên tri Muhammad vì sự rõ ràng và kỳ diệu, rằng nó được lưu giữ trong trái tim và các trang sách khỏi bất kỳ sự giả mạo hay bóp méo nào, rằng nó được truyền tải bằng cách kể chuyện liên tục, rằng việc đọc nó là một hành động thờ phượng, và rằng nó là cuốn sách cuối cùng được Thượng Đế mặc khải sau các Cuộn sách của Abraham, các Thánh vịnh, Torah và Phúc âm.
Kinh Qur'an là cuốn sách tiếng Ả Rập cổ nhất và được coi là có giá trị ngôn ngữ nhất, nhờ sự kết hợp giữa hùng biện, rõ ràng và trôi chảy. Kinh Qur'an đã có tác động đáng kể đến việc thống nhất và phát triển tiếng Ả Rập, văn học Ả Rập, khoa học hình thái và cú pháp, cũng như thiết lập, chuẩn hóa và củng cố các nền tảng cơ bản của ngữ pháp tiếng Ả Rập. Nó là tài liệu tham khảo và nền tảng cho tất cả những đóng góp của các bậc thầy ngôn ngữ học cho sự phát triển của tiếng Ả Rập, đáng chú ý nhất là Abu al-Aswad al-Du'ali, al-Khalil ibn Ahmad al-Farahidi, học trò của ông là Sibawayh, và những người khác. Những đóng góp này trải dài từ thời cổ đại đến hiện đại, cho đến thời đại văn học lưu vong trong thời hiện đại, bắt đầu với Ahmad Shawqi, Rashid Salim al-Khoury, Gibran Khalil Gibran, và những người khác, những người đóng vai trò quan trọng trong việc hồi sinh ngôn ngữ và di sản Ả Rập trong thời hiện đại.
Công lao thống nhất tiếng Ả Rập thuộc về sự mặc khải của Thánh Kinh Qur'an. Trước thời đại này, ngôn ngữ Ả Rập chưa được thống nhất, mặc dù nó rất phong phú và linh hoạt. Điều này kéo dài cho đến khi Kinh Qur'an được mặc khải, một thách thức đối với quần chúng bằng sự hùng biện của nó. Nó đã ban tặng cho tiếng Ả Rập một dòng chảy văn phong tuyệt đẹp, vần điệu ngọt ngào và sự hùng biện mà ngay cả những người Ả Rập hùng biện nhất cũng không thể làm được. Kinh Qur'an đã hoàn toàn thống nhất tiếng Ả Rập và bảo vệ nó khỏi sự mai một và tuyệt chủng, giống như nhiều ngôn ngữ Semit khác, vốn đã trở nên lỗi thời và biến mất theo thời gian, hoặc những ngôn ngữ suy yếu và suy tàn, khiến chúng không thể theo kịp những thay đổi và căng thẳng mà nền văn minh và các dân tộc của thế giới cổ đại và hiện đại đã trải qua.
Kinh Qur'an bao gồm 114 surah (chương), được phân loại thành Mecca và Medina, tùy theo địa điểm và thời gian được mặc khải. Người Hồi giáo tin rằng Kinh Qur'an được Thượng Đế mặc khải cho Tiên tri Muhammad thông qua Thiên thần Gabriel trong khoảng thời gian khoảng 23 năm, từ khi Tiên tri Muhammad bước sang tuổi bốn mươi cho đến khi qua đời vào năm 11 AH/632 CN. Người Hồi giáo cũng tin rằng Kinh Qur'an đã được các Sahaba gìn giữ tỉ mỉ sau khi được mặc khải cho Tiên tri Muhammad, người đã ghi nhớ và đọc lại cho các Sahaba của mình. Họ tin rằng các câu thơ của Kinh Qur'an rất chính xác và chi tiết, và nó dành cho tất cả các thế hệ qua mọi thế kỷ, bao gồm tất cả các dịp và hoàn cảnh.
Sau khi Tiên tri Muhammad qua đời, Kinh Qur'an được biên soạn thành một bộ luật duy nhất theo lệnh của vị Caliph đầu tiên, Abu Bakr al-Siddiq, dựa trên gợi ý của người bạn đồng hành của ông, Umar ibn al-Khattab. Sau khi vị Caliph thứ hai, Umar ibn al-Khattab, qua đời, bản sao này vẫn thuộc sở hữu của Hafsa bint Umar, Mẹ của các tín đồ, cho đến khi vị Caliph thứ ba, Uthman ibn Affan, nhận thấy sự khác biệt trong cách đọc của người Hồi giáo do sự khác biệt về phương ngữ của họ. Ông đã yêu cầu Hafsa cho phép ông sử dụng Kinh Qur'an mà bà đang giữ, được viết bằng phương ngữ Quraish, làm phương ngữ chuẩn. Uthman ra lệnh sao chép nhiều bản sao của Kinh Qur'an để chuẩn hóa cách đọc và loại bỏ bất kỳ sự khác biệt nào. Những bản sao này được phân phối cho các tỉnh khác nhau và ông giữ một bản cho riêng mình. Những bản sao này vẫn được gọi là Bộ luật Uthmanic. Do đó, bản sao hiện tại của Kinh Qur'an chứa cùng một văn bản được sao chép từ bản gốc do Abu Bakr biên soạn. Người Hồi giáo tin rằng Kinh Qur'an là phép màu của Nhà tiên tri Muhammad đối với thế giới và những câu thơ của nó thách thức thế giới tạo ra một cái gì đó tương tự hoặc một surah giống như nó. Họ cũng coi đó là bằng chứng về chức tiên tri của ông và là đỉnh cao của một loạt các thông điệp thiêng liêng bắt đầu, theo niềm tin của người Hồi giáo, với các Cuộn giấy của Adam, tiếp theo là các Cuộn giấy của Abraham, Torah của Moses, các Thánh vịnh của David và cuối cùng là Phúc âm của Chúa Jesus.